Liên kết Website

SỐ LƯỢT TRUY CẬP

1
0
8
2
2
3
4

SỐ LƯỢT ĐANG ONLINE

0
0
0
0
0
0
2
Bản in
Tin tức sự kiện | Tin ngành thứ ba, Ngày 19/11/2019, 09:14

Một số vấn đề về xác lập và bảo vệ các quyền hợp pháp của quốc gia trong Biển Đông


Để bảo đảm tính chính xác, không gây hiểu nhầm, tránh bị lợi dụng trong việc thông tin về những vấn đề liên quan đến các vùng biển, thềm lục địa, các hải đảo, quần đảo của Việt Nam trong Biển Đông, trước hết, chúng ta cần nắm vững những nội dung cơ bản về phạm vi và quy chế pháp lý của chúng, cũng như quá trình xác lập, bảo vệ, quản lý các vùng lãnh thổ đó. Vì vậy, xin được lần lượt giới thiệu các nội dung thiết yếu như sau:

Chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa được xác lập theo nguyên tắc pháp lý nào?

Khi xem xét quyền thụ đắc lãnh thổ của một quốc gia đối với một vùng lãnh thổ đang có tranh chấp hay bất đồng về chủ quyền quốc gia, thông thường người ta phải so sánh, đánh giá các nguyên tắc pháp lý được thể hiện trong lập trường của các bên liên quan.

Nguyên tắc “Chiếm hữu thật sự”:

Nội dung chủ yếu của nguyên tắc “chiếm hữu thực sự” trong luật pháp quốc tế bao gồm:

- Việc xác lập chủ quyền lãnh thổ phải do Nhà nước tiến hành.

- Sự chiếm hữu phải được tiến hành một cách hòa bình trên một vùng lãnh thổ vô chủ (res nullius) hoặc là trên một vùng lãnh thổ đã bị từ bỏ bởi một quốc gia đã làm chủ nó trước đó (derelicto). Việc sử dụng vũ lực để xâm chiếm là hành động phi pháp.

- Quốc gia chiếm hữu phải thực thi chủ quyền của mình ở những mức độ cần thiết, tối thiểu thích hợp với các điều kiện tự nhiên và dân cư trên vùng lãnh thổ đó.

- Việc thực thi chủ quyền phải liên tục, hòa bình.

Gần đây hơn, Tòa án Công lý Quốc tế đã quyết định cho Malaysia thắng trong vụ kiện với Indonesia vào tháng 12/2002 về chủ quyền đối với Pulau Ligitan và Pulau Sipadan vì Tòa nhận thấy rằng Malaysia đã thực hiện một cách thường xuyên một loạt các hoạt động của nhà nước. Tuy nhiên, những định chế nói trên cũng không thể giải quyết được những mâu thuẫn, cạnh tranh, tranh chấp giữa các quốc gia, nhất là trong công cuộc tìm kiếm thị trường cung cấp và tiêu thụ hàng hóa của nền sản xuất tư bản phát triển. Vì thế, những cuộc chiến tranh, xung đột vẫn diễn ra trên những quy mô và mức độ khác nhau: Đại chiến thế giới thứ 1, Đại chiến thế giới lần thứ 2, chiến tranh lạnh, tranh chấp biên giới lãnh thổ, chủ nghĩa khủng bố, xung đột sắc tộc, tôn giáo…

Để ngăn chặn những hiểm họa chiến tranh do những tham vọng bá chủ thiên hạ, xâm chiếm lãnh thổ của quốc gia có chủ quyền bằng cách đe dọa hoặc sử dụng vũ lực, Hiến chương Liên Hợp Quốc đã được ký ngày 26/6/1945 ở thành phố San Francisco và có hiệu lực từ ngày 24/10/1945. Với sự ra đời của Hiến chương Liên Hợp Quốc có thể nói đã trở thành nguyên tắc pháp lý quốc tế cao nhất để bảo vệ sự tồn tại của các quốc gia, với tư cách là các thực thể trong quan hệ quốc tế thời hiện đại.

Về nguyên tắc, nó là vũ khí được sử dụng để vô hiệu hóa các phương thức thụ đắc lãnh thổ bằng sức mạnh đã tồn tại trong các thời kỳ lịch sử trước đây. Đấy chính là lý do lý giải cho câu hỏi tại sao mãi đến đầu thế kỷ 20, quốc tế vẫn còn thừa nhận việc dùng vũ lực để xâm chiếm một bộ phận hay toàn bộ lãnh thổ của một quốc gia là hành động hợp pháp và đấy cũng chính là nội dung trả lời câu hỏi vì sao trong Hiến chương Liên Hợp Quốc lại có điều khoản “Tất cả các nước thành viên Liên Hợp Quốc không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế nhằm chống lại sự bất khả xâm phạm về lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào”.

Chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được xác lập theo nguyên tắc “chiếm hữu thật sự”

Nguyên tắc pháp lý mà Việt Nam đã dựa vào để chứng minh và khẳng định Việt Nam có chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở giữa Biển Đông là nguyên tắc “chiếm hữu thật sự”.

Bởi vì, Nhà nước Việt Nam là nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền của mình đối với 2 quần đảo này từ khi chúng còn là đất vô chủ. Việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền của Việt Nam ở 2 quần đảo này là rõ ràng, liên tục, hòa bình, phù hợp với nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ hiện hành - nguyên tắc chiếm hữu thật sự - của Công pháp quốc tế.

Việt Nam có đầy đủ các chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý để chứng minh và bảo vệ chủ quyền của mình đối với 2 quần đảo này qua các thời kỳ lịch sử.

Suốt trong 3 thế kỷ, từ thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX, dù trải qua 3 triều đại khác nhau, Nhà nước Đại Việt đều đã thực hiện sứ mệnh thiêng liêng của mình, với tư cách là Nhà nước, tiến hành chiếm hữu và thực thi chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Đội Hoàng Sa, một tổ chức do Nhà nước lập ra để quản lý, bảo vệ, khai thác 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đội Hoàng Sa, về sau lập thêm Đội Bắc Hải do Đội trưởng Đội Hoàng Sa kiêm quản, đã hoạt động theo lệnh của 7 đời chúa, từ chúa Nguyễn Phúc Lan hay Nguyễn Phúc Tần cho đến khi phong trào Tây Sơn nổi dậy, không gặp phải bất kỳ sự tranh chấp, phản kháng nào.

Trong giai đoạn lịch sử này, có một chứng cứ hết sức quan trọng không thể không đề cập đến khi chứng minh nhà nước phong kiến Việt Nam đã quản lý thật sự, hiệu quả đối với 2 quần đảo này. Đó là việc tổ chức đơn vị hành chính của Hoàng Sa (quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) trong hệ thống tổ chức hành chính của nhà nước lúc bấy giờ. Thời chúa Nguyễn, Hoàng Sa thuộc Thừa Tuyên Quảng Nam hay Quảng Nghĩa (Ngãi), lúc là Phủ khi thì Trấn: “Bãi Cát Vàng trong phủ Quảng Nghĩa” (Toản tập Thiên Nam Tứ chí Lộ đồ thư); “Hoàng Sa ở phủ Quảng Nghĩa, thuộc dinh Quảng Nam, huyện Bình Sơn, xã An Vĩnh” (Phủ biên Tạp lục của Lê Quí Đôn); sang thời Tây Sơn, phủ Quảng Nghĩa đổi thành phủ Hòa Nghĩa. Thời nhà Nguyễn, Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi.

Kế tiếp thời kỳ nhà nước phong kiến Việt Nam, với tư cách là đại diện cho Nhà nước Việt Nam về mặt đối ngoại theo Hiệp ước Patenotre 1884, chính quyền thực dân Pháp đã tiến hành bảo vệ và quản lý 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo đúng thủ tục pháp lý đương đại.

Đến là thời kỳ Việt Nam tạm thời chia 2 miền Nam Bắc, quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa nằm dưới vĩ tuyến 17 nên các chính thể ở miền nam Việt Nam, với tư cách là những thực thể có tư cách pháp lý trong quan hệ quốc tế, đã tiếp tục bảo vệ và quản lý 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ năm 1954 đến 1975. Các chính thể miền Nam Việt Nam đã liên tục thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng các văn bản hành chính nhà nước, cũng như bằng việc triển khai thực thi chủ quyền thực tế trên hai quần đảo này. Từ ngày 13-28/4/1975, các lực lượng Quân giải phóng nhân dân Nam Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã tiếp quản các đảo có quân đội Việt Nam Cộng hòa đóng giữ, đồng thời triển khai lực lượng đóng giữ các đảo, một số vị trí khác trong quần đảo Trường Sa.

Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng nguyên tắc “chủ quyền lịch sử” là vô giá trị, nếu không muốn nói đó là quan điểm rất nguy hại, gây bất ổn cho sự tồn tại hiện thời, hợp pháp của các quốc gia trên thế giới. Bởi vì, nếu chỉ căn cứ vào lịch sử thì nhiều quốc gia sẽ không còn tồn tại như hiện nay, kể cả nước Trung Hoa. Có thể nói đó chỉ là biến tướng của tư tưởng dân tộc cực đoan, bất chấp luật pháp và thực tiễn quốc tế để thực hiện tham vọng bành trướng bá quyền, nước lớn.

Xác lập các vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán theo UNCLOS 1982 và luật Biển Việt Nam

Luật Biển quốc tế đang có hiệu lực hiện nay là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (tiếng Anh: The United Nations Convention on the Law of the Sea, viết tắt là UNCLOS 1982). Văn bản của Công ước này được thể hiện bằng các ngôn ngữ Ả Rập, Trung Quốc, Anh, Pháp, Nga, Tây Ban Nha.

Năm 1973, Liên Hợp Quốc triệu tập Hội nghị Luật Biển lần thứ 3 để thảo luận và thông qua Công ước Luật Biển mới.

Sau 5 năm trù bị (1967-1972) và qua 9 năm thương lượng (1973-1982), trải qua 11 khóa họp, ngày 30/4/1982, Hội nghị của Liên Hợp Quốc về Luật Biển lần thứ 3 đã thông qua được một Công ước mới, gọi là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, với tỷ lệ 130 phiếu thuận, 4 phiếu chống, 17 phiếu trắng và 2 nước không tham gia bỏ phiếu. Sau đó, ngày 10/12/1982, tại Montego Bay (Jamaica), 118 đoàn đại biểu quốc gia đã chính thức ký Công ước. Công ước có hiệu lực từ ngày 16/11/1994.

Việt Nam là một trong 130 nước bỏ phiếu thông qua và sau đó, năm 1982, cùng 117 nước khác ký kết Công ước tại Vịnh Montego (Jamaica). Ngày 23/6/1994, Việt Nam đã phê chuẩn và chính thức trở thành thành viên chính thức của Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982.

Công ước được xây dựng theo nguyên tắc “cả gói”, bao gồm tất cả mọi khía cạnh liên quan đến Luật Biển. Công ước bao gồm 17 phần với 320 điều khoản, 9 phụ lục, 4 nghị quyết kèm theo, chứa đựng 1.000 quy phạm pháp luật quốc tế. Đây là một văn kiện pháp lý quốc tế tổng hợp, toàn diện, bao hàm tất cả những nội dung quan trọng nhất trong luật pháp và thực tiễn quốc tế về biển và đại dương thế giới; trong đó, quan trọng nhất là thống nhất phương pháp xác định phạm vi không gian của các vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của các nước ven biển, quy định rõ ràng các quyền và nghĩa vụ của mọi quốc gia, có biển và không có biển, phát triển hay đang phát triển, trên nhiều lĩnh vực như an ninh, bảo vệ môi trường, thăm dò khai thác tài nguyên thiên nhiên, giao thông liên lạc, nghiên cứu khoa học và công nghệ… trên các vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia, cũng như các vùng biển nằm ngoài phạm vi quyền tài phán quốc gia. Cụ thể là:

Đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải

Đường cơ sở dùng để tính chiều rộng Lãnh hải (gọi tắt là Đường cơ sở) là căn cứ để xác định chiều rộng và giới hạn phạm vi của lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế (thường gọi là vùng đặc quyền kinh tế), thềm lục địa.

Điều 7, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, đã quy định phương pháp thiết lập đường cơ sở như sau:

- Ở nơi nào bờ biển bị khoét sâu hay lồi lõm hoặc có một chuỗi đảo nằm sát ngay và chạy dọc theo bờ biển, phương pháp đường cơ sở thẳng nối liền các điểm thích hợp có thể được sử dụng để kẻ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.

(Còn nữa)

 

Theo: http://baodaknong.org.vn/


Bản in