Theo dự kiến, vào sáng ngày 6/6, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung sẽ trả lời chất vấn đại biểu Quốc hội trước nhiều vấn đề liên quan đến lao động, việc làm, bảo hiểm xã hội (BHXH)…Trước phiên chất vấn, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung đã có báo cáo gửi các đại biểu Quốc hội một số nội dung liên quan đến nhóm vấn đề chất vấn tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá XV.
Việc làm toàn cầu được dự báo chỉ tăng 1%
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho biết, về tình hình lao động những tháng đầu năm, chịu ảnh hưởng của bối cảnh tình hình kinh tế, xã hội, chính trị các nước trên thế giới có diễn biến nhanh, phức tạp; hầu hết các nước thực hiện thắt chặt chính sách tiền tệ; lạm phát mặc dù có giảm nhưng vẫn còn cao, các hoạt động kinh tế, nhu cầu tiêu dùng phục hồi chậm; xung đột giữa Nga – Ucraina tiếp tục diễn ra ảnh hưởng đến nguồn cung cấp năng lượng và chi phí sản xuất hàng hóa.
Cùng với đó, đại dịch COVID-19 vẫn tiếp tục ảnh hưởng khi số ca nhiễm virus tăng trở lại trong thời gian gần đây. Thị trường lao động của các nước đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, rủi ro tác động đến nhiều ngành, lĩnh vực.
Viện dẫn báo cáo xu hướng triển vọng việc làm và xã hội thế giới 2023 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Bộ trưởng thông tin, năm 2023 hầu hết các quốc gia sẽ không thể phục hồi hoàn toàn về mức trước đại dịch, việc làm toàn cầu được dự báo chỉ tăng 1%, giảm đáng kể so với tốc độ tăng việc làm 2,3% năm 2022.
Kinh tế vĩ mô của Việt Nam cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức phù hợp, các cân đối lớn được bảo đảm.
Số liệu thống kê cho thấy, trong 4 tháng đầu năm, cả nước có 49,9 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số lao động đăng ký gần 331,4 nghìn người (tăng 0,6% số doanh nghiệp, giảm 4,8% số lao động so với cùng kỳ năm trước).
Số doanh nghiệp phải tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là 49,9 nghìn doanh nghiệp (bằng đúng số thành lập mới), tăng 21,8% so với cùng kỳ năm trước.
Lao động có việc làm tiếp tục tăng, thu nhập được cải thiện
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên quý I/2023 đạt 52,2 triệu người (tăng 88,7 nghìn người so với quý trước và tăng hơn 1 triệu người so với cùng kỳ năm trước). Tuy nhiên, tốc độ tăng lực lượng lao động có dấu hiệu chậm lại khi tốc độ tăng quý I/2023 so với quý trước chỉ là 0,2% (quý I/2022 là 0,9%; quý IV/2022 là 0,5%).
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động quý I/2023 là 68,9% (tăng 0,8% so với cùng kỳ năm trước). Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động khu vực thành thị là 65,2%, khu vực nông thôn là 71,3%;
Trên bình diện chung, lao động có việc làm tiếp tục tăng. Lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm trong quý 1/2023 là 51,1 triệu người (tăng 1,1 triệu người so với cùng kỳ năm trước và tăng 677,9 nghìn người so với năm 2019).
“Tuy nhiên, tại một số địa phương lao động có việc làm có xu hướng giảm so với quý IV/2022 như Thành phố Hồ Chí Minh giảm 0,4%, Bà Rịa - Vũng Tàu giảm 2,6%, Bắc Ninh giảm 0,9%, Bắc Giang giảm 4,5%, Thái Nguyên giảm 2,2%”, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho hay.
Đáng chú ý, số lao động đi làm việc ở nước ngoài tăng nhanh: Trong 4 tháng đầu năm 2023 số lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài là 49.880 lao động, tăng 3,44 lần so với cùng kỳ năm 2022 (năm 2022: 14.489 lao động).
Thu nhập của người lao động được cải thiện: Thu nhập bình quân của người lao động quý I/2023 là 7,0 triệu đồng (tăng 640 nghìn đồng so với cùng kỳ năm trước)…
Từ đó, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung chia sẻ, trong bối cảnh kinh tế - xã hội những tháng đầu năm 2023 có chỉ số phát triển kinh tế không được thuận lợi nhưng thị trường lao động vẫn có sự phát triển nhẹ là nhờ sự tăng trưởng ở ngành thương mại - dịch vụ (ngành sử dụng nhiều lao động nhất, 4 tháng đầu năm 2023 tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 12,8%).
Tính linh hoạt của người lao động về việc làm cao, lao động làm việc trong khu vực phi chính thức chiếm tỷ trọng lớn (đặc tính về lao động việc làm Việt Nam với 64,6% lao động có việc làm phi chính thức).
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung sẽ chịu trách nhiệm trả lời chính của nhóm vấn đề chất vấn thuộc lĩnh vực lao động, thương binh và xã hội.
Cắt giảm lao động do doanh nghiệp thiếu đơn hàng
Tuy nhiên, theo Bộ trưởng Đào Ngọc Dung, diễn biến cuối tháng 4 và tháng 5 về sản xuất kinh doanh kéo theo vấn đề lao động, việc làm có diễn biến khó khăn hơn.
Để hình dung rõ hơn, ông Dung đưa số liệu cụ thể: số doanh nghiệp gặp khó khăn phải cắt giảm lao động là 8.644 doanh nghiệp (chiếm 1% tổng số doanh nghiệp). Doanh nghiệp gặp khó khăn là những doanh nghiệp thuộc ngành dệt may, da giày, chế biến gỗ, sản xuất, lắp ráp linh kiện điện tử…
Về lao động, số lao động trong doanh nghiệp bị ảnh hưởng việc làm là 509.903 người (khoảng 3,4% tổng số lao động trong doanh nghiệp), trong đó: Số lao động thôi việc, mất việc làm là 279.409 người (chiếm 54,79% lao động bị ảnh hưởng); trong đó lao động ngành dệt may là 68.782 người, da giày 31.653 người, sản xuất linh kiện và sản phẩm điện tử là 45.075 người.
Số lao động thôi việc, mất việc tập trung ở các tỉnh có khu công nghiệp, khu kinh tế lớn như Bình Dương (71.590 người), Đồng Nai (32.450 người), TP. Hồ Chí Minh (44.890 người), Bắc Giang (27.500 người), Bắc Ninh (13.990 người), Hải Dương (16.020 người), Hà Nội (46.860 người).
Số lao động giảm giờ làm là 195.039 người (chiếm 38,25% lao động bị ảnh hưởng); Số lao động bị ngừng việc, nghỉ việc không lương là 17.003 người (chiếm 3,33% lao động bị ảnh hưởng); Số lao động tạm hoãn hợp đồng lao động là 8.346 người (chiếm 1,64% lao động bị ảnh hưởng), trong đó nhiều nhất là lao động ngành dệt may là 3.826 người.
Số lao động chưa qua đào tạo (chưa có bằng cấp, chứng chỉ) thôi việc, mất việc nhiều nhất với tỷ lệ 68%. Tỷ lệ lao động là thợ may, thợ lắp ráp thôi việc, mất việc cao nhất (28% lao động là thợ may, 8% lao động là thợ lắp ráp).
Số lao động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất thôi việc, mất việc nhiều nhất (49% số lao động nộp hồ sơ bảo hiểm thất nghiệp là từ các khu công nghiệp, khu chế xuất).
Chỉ rõ nhưng nguyên nhân của việc cắt giảm lao động hiện nay, theo Bộ trưởng, do các doanh nghiệp thiếu đơn hàng là do kinh tế các nước gặp khó khăn, lạm phát cao, chính sách tiền tệ thắt chặt nên sức mua sụt giảm… khiến nhiều doanh nghiệp trong nước gặp tình trạng hàng tồn kho không xuất được, không có đơn hàng mới.
Bên cạnh đó, chi phí sản xuất tăng cao khiến nhiều doanh nghiệp Việt không thể cạnh tranh được; Một số thị trường lớn của Việt Nam đặt ra yêu cầu mới về tiêu chuẩn hàng hóa, và có sự thay đổi quan điểm thị hiếu của người tiêu dùng nên các doanh nghiệp gặp khó để sắp xếp lại hoạt động sản xuất, trong khi, sau đại dịch COVID-19 nguồn lực tài chính của các doanh nghiệp không còn đủ để thực hiện.
Đánh giá chung, việc cắt giảm lao động trong các doanh nghiệp hiện nay chủ yếu là vì lý do kinh tế, khó khăn ở việc tìm kiếm, phát triển thị trường nước ngoài, doanh nghiệp gặp khó khăn tập trung vào doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo ở một số ngành như dệt may, da giày, sản xuất và lắp ráp linh kiện điện tử, chế biến gỗ.
Nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn được triển khai
Từ thực tế trên, nêu các giải pháp tháo gỡ khó khăn trong tạo việc làm cho người lao động hiện nay, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung thông tin, tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật để phát triển đồng bộ các yếu tố của thị trường lao động, nâng cao hiệu quả hoạt động của các định chế trung gian của thị trường, phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động;
Thúc đẩy tạo việc làm bền vững, sử dụng lao động hiệu quả thông qua các chương trình, đề án, chính sách tín dụng hỗ trợ tạo việc làm, tham gia thị trường lao động.
Triển khai các giải pháp đẩy mạnh công tác dự báo nhu cầu sử dụng lao động, nhu cầu đào tạo nghề nghiệp của doanh nghiệp về số lượng, chất lượng, cơ cấu ngành nghề, trình độ của lao động trong các doanh nghiệp.
Thực hiện các giải pháp để thu hút đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh. Các giải pháp cần tập trung vào hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường, tìm kiếm đơn hàng mới, giảm chi phí sản xuất, kinh doanh thông qua việc giảm lãi suất vay, hỗ trợ giảm thuế, giảm các khoản phí, lệ phí phải đóng…
Đồng thời, thực hiện các giải pháp để hỗ trợ tạo việc làm, kết nối cung - cầu lao động và đảm bảo quyền lợi cho người lao động…